Trà vừa là thức
uống thanh tuý giàu hương vị,
lại vừa
mang đến một cảm
nghiệm tâm thức
cho tinh thần, hoài cổ, an nhiên.
Trà đạo
Là hồn của
trà, phần hấp dẫn
và bí ẩn, nhưng ở
đây mình sẽ trình bày một cách trực quan và đơn
giản nhất
để các bạn
có được phân định
đúng đắn trước khi khám phá sâu hơn. Mỗi
buổi trà đạo
là một bóng mát tuyệt vời để tinh thần
nghỉ ngơi,
được thêm sức
mạnh từ
cảm xúc hài lòng về cuộc
sống. Để
biết mình là ai và không cần phải
là ai.
Trà đạo là điều
đáng tự hào nhất của
văn minh Đông Á, một cánh cửa để
thế giới
hiểu được
Phương Đông.
Một chén trà để thưởng thức được
cái lễ của
Khổng Tử,
cái ung dung của Lão Tử và sự
an nhiên từ Đức Thích Ca. Chúng ta có một con đường
để hạnh
phúc hơn. Đó là
Trà Đạo.
Trà là gì
Nhiều bạn
sẽ ngạc
nhiên khi biết tất cả
các loại trà đều làm từ
một loại
cây, các công đoạn để làm ra các loại trà khác nhau, trong ly trà có gì, các loại trà được
làm ở đâu.
Cây Trà hay cây Chè
có tên khoa học là Camellia sinensis
là loài cây mà lá và chồi
của chúng được sử dụng để
sản xuất
trà - đừng nhầm với
cây hoa trà). Tên gọi sinensis có nghĩa là
"Trung Quốc" trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa học cũ còn có Thea bohea và Thea viridis.
Trà xanh, Trà ô long
và Trà đen tất cả đều
được chế
biến từ
loài này, nhưng được chế
biến ở
các mức độ
ôxi hóa khác nhau.
Cây chè (trà)
(Camellia sinensis)xuất
xứ từ
Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á, nhưng
ngày nay nó
được trồng
phổ biến
ở nhiều
nơi trên
thế giới,
trong các khu vực nhiệt đới
và cận nhiệt
đới. Nó là loại cây xanh lưu
niên mọc
thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường
được xén tỉa
để thấp
hơn 2 mét
(6 ft) khi được trồng để
lấy lá. Nó có rễ cái dài. Hoa trà màu trắng
ánh vàng, đường kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa. Hạt
của nó có thể ép để lấy dầu.
Hạt của
Camellia sinensis và Camellia oleifera được
ép lấy tinh dầu
trà, gia vị ngọt và dầu
ăn không được trộn lẫn
với tinh dầu
trà. Tinh dầu thường được
sử dụng
làm thuốc và mỹ phẩm,
có khởi nguồn
từ lá của
nhiều thực
vật khác.
Lá của trà dài từ 4–15 cm và rộng
khoảng 2–5 cm. Lá tươi chứa khoảng 4% caffein. Lá non có sắc xanh lục
nhạt được
thu hoạch để sản
xuất trà. Ở
thời đoạn
đó, mặt dưới
lá có lông tơ ngắn màu trắng.
Lá già thì chuyển sang màu lục sẫm.
Tùy lứa tuổi
mà lá trà có thể dùng làm thành phẩm trà khác nhau vì thành phần hóa học
trong lá khác nhau. Thông thường,
chỉ có lá chồi và 2 đến
3 lá mới mọc gần
thời gian đó được thu hoạch
để chế
biến. Việc
thu hoạch thủ công bằng
tay diễn ra đều đặn
mỗi 1 đến
2 tuần
Trà thường được
trồng trong các khu vực nhiệt
đới và cận
nhiệt đới,
trong khu vực có lượng mưa
tối thiểu
127 cm. (50 inches) mỗi
năm. Trà được trồng tại
nơi ẩm
ướt, có đủ
ánh sáng mặt trời, có thể
trồng trong khu vực USDA 7 - 9. Tuy nhiên, mỗi
bản sao được
trồng thương
mại từ
vùng xích đạo, xa về phía bắc
của Cornwall tại Vương quốc Anh. Đa số trà cao sản
được trống
tại cao nguyên, trên 1,500 mét (4,900 feet), nơi thực
vật phát triển chậm và có nhiều hương
vị.
Trà được trồng
tại nhiều
nước, mỗi
nước điều
có dạng trà riêng:
·
Tại Ấn
Độ : Phần
lớn trà được
sản xuất
tại Ấn
Độ gọi
là trà Assam (đôi khi nó được
gọi là C. sinensis assamica hay C. assamica).
Nó là loại cây nhỏ (thân đơn),
lá to bản.
Trong thiên nhiên, trà Assam cao tới
6 - 20 mét (20–65 ft); nhưng
khi canh tác thì cây
được xén kỹ
chỉ còn cao nhỉnh trên hông người.
Ở những
vùng đất trũng, cây trà cần độ ẩm cao (mưa
nhiều) nhưng
thoát nước
tốt. Những
cây trà thuần hóa không chịu được
nhiệt độ
cao. Cây trà Assam được phát hiện năm 1823 (mặc dù nó đã được
người dân địa
phương sử
dụng làm đồ
uống từ
trước đó) là một trong hai cây trà gốc.
Tất cả
các cây trà Assam và phần
lớn trà Ceylon (Tích Lan, nay là Sri Lanka) có
nguồn gốc
từ cây này. Trà Assam tạo ra hương
vị ngọt
khi pha nước uống, không giống như vị của
các loại trà Trung Hoa khác.
·
Tại Trung Quốc: Trà Trung Quốc
(đôi khi gọi là C. sinensis
sinensis) là loài cây lá nhỏ,
nhiều thân mọc
thành bụi rậm cao tới
3 mét. Đây là loại trà đầu tiên được
ghi nhận với lịch
sử trong văn tịch hơn 3000 năm; trà
này được
dùng sản xuất nhiều
loại trà nổi
tiếng.
·
Tại Cam pu chia: Trà Cam pu chia đôi khi được gọi
là C. sinensis parvifolia. Lá trà này về
kích thước trung bình, giữa lá trà Assam và lá trà Trung Quốc; nó là một loại cây nhỏ, dạng
bụi. Đôi khi người ta coi biến
thể này là sản phẩm lai ghép của trà Assam và Trung Quốc.
·
Tại Việt
Nam: Cây trà tại Việt Nam đến
giữa thể
kỷ 20 được
trồng khắp
miền quê ngoài Bắc và Trung, diện
tích lớn nhất ở
hai tỉnh Phú Thọ và Quảng
Nam. Loại này thân mọc cao, lá lớn và dày, có thể
hái về vò nát để nấu uống tươi
gọi là trà xanh. Loại thứ
hai là trà đồn điền du nhập
từ phương
Tây, cây
thấp, lá nhỏ,
thường phải
ủ rồi
mới nấu
nước. Hạng
nhất là trà búp, có khi gọi văn vẻ
là "trà bạch mao" hay
"trà bạch tuyết" nếu búp có lông tơ
trắng. Hạng
nhì là hai lá trà kế. Lá thứ tư,
thứ năm là trà hạng ba. Những
lá dưới nữa
thì dùng làm trà mạn, rẻ hơn
cả. Đồn
điền cây trà thì mãi đến năm 1924 thời Pháp thuộc
mới bắt
đầu hoạt
động ở
vùng Cao nguyên Trung Kỳ gồm
các tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac và Đồng Nai Thượng. Sang thập
niên 1930, trà được đem trồng một
cách quy mô trên cao nguyên vùng B'lao và Djiring và vùng này sau chiếm địa
vị là vựa
trà
Tính đến năm 1960, Việt Nam xuất
cảng 2.000 tấn trà mỗi
năm. Đến năm 2007 thì sản lượng
trà của Việt
Nam đã vượt một triệu
tấn, canh tác trên 125.000 hecta.
Lá trà là thức ăn của
nhiều loài động
vật ăn cỏ,
như các
loài sâu
bướm thuộc
họ Peribatodes rhomboidaria, Geometridae.
Hiệu quả
sức khỏe:
Lá trà được dùng trong Đông y để trị
hen phế quản (như
một loại
thuốc trị
hen suyễn), nhiệt miệng
, đau thắt ngực, bệnh
tim mạch vành và bệnh mạch máu ngoài.
2 thành phần dược
lý quan trọng nhất. Khi nói về công dụng
sức khoẻ
của trà, bạn
chỉ cần
nhớ về
2 thành phần này.
A/ Polyphenols: “thần dược”.
Hầu
hết giá trị
y học của
trà đến từ
hợp chất
này, thường được cảm
nhận từ
vị chát đặc
trưng của
trà. Polyphenols được chia thành nhiều loại,
thường được
nhắc đến
nhiều nhất
là tanin. Có 3 tác dụng với sức
khỏe của
Polypenols thường được đề
cập nhất:
·
Chống ung thư : do chất
này có tác dụng chống đột
biến tế
bào, chống oxy hoá.
·
Giảm béo, trẻ lâu: polyphenols làm giảm
lượng lipid, cholesterol trong máu, chống béo phì, chống lão hoá tế
bào.
·
Chống ngộ
độc, sâu răng: tác dụng này đến
từ khả
năng kháng khuẩn cao của hợp
chất Polyphenols, uống trà giúp chống lại vi khuẩn độc
hại trong thức ăn và trong khoang miệng.
B/ Caffein: tỉnh
táo và… mất
ngủ.
Đây là chất
nổi tiếng
ai cũng biết. Giống như
cà phê,
trà có
hàm lượng
caffein cao (nhưng không nhiều
hơn cà
phê như
nhiều người
lầm tưởng).
Hợp chất
này kích thích thần kinh, giúp tỉnh táo, hưng phấn, kích thích cơ tim giúp
lưu thông
máu, giảm
mệt mỏi,
kích thích thận, lợi tiểu…Tuy
nhiên, Caffein cũng mang đến
sự mất
ngủ, và đây cũng là lý do nhiều người
ngại dùng trà. Ảnh hưởng giấc ngủ
trên mỗi người rất
khác nhau tuỳ vào cơ địa và việc
sử dụng
thường xuyên hay không. 80% caffein sẽ tan khi pha trà. Để giảm
lượng caffein trong nước trà, hãy tráng qua trà bằng nước
nóng trước khi pha và hãm trà
với thời
gian ngắn hơn (pha được
nhiều lần
hơn).
Ngày nay, trà xanh
phổ biến
khắp nơi,
là thức
uống rất
có lợi cho sức
khỏe, góp phần ngừa ung thư, giảm
cholesterol, diệt khuẩn và giảm
cân. Trà chứa lượng lớn
catechins, một chất chống
ôxy hóa. Trong các hoạt
tính, (-)-catechin từ C. sinensis làm kích
thích PPARgamma, thụ quan hạt nhân, là mục tiêu dược
lý hiện hành cho điều trị đái tháo đường loại
2.
Tuy nhiên, ngày nay
trà cũng có tác dụng xấu đến
sức khỏe,
như chứa
caffein vượt mức cho phép, nhiều loại trà còn chứa flo và oxalat.
Danh sách công dụng từng
loại trà.
Tỉ lệ
các chất trên trong mỗi loại
trà là khác nhau, với mục đích tham khảo, sau đây là một
vài lợi ích của
trà theo y học cổ truyền
với từng
loại trà.
Trà đen
·
Giảm chất
béo, giảm cholesterol “xấu”
·
Giàu
fluoride, tăng cường sức khỏe
răng miệng
·
Giảm mệt
mỏi, kích thích hệ thần kinh trung ương
·
Giúp xương chắc
khỏe
·
Tăng cường tính đàn hồi của mạch máu
Trà Xanh
·
Catechin
trong trà có đặc tính chống vi khuẩn và chống
virus
·
Giảm cholesterol và chống huyết
áp cao
·
Diệt vi khuẩn
trong miệng và ruột
·
Catechin
trà và polysaccharides có thể
làm giảm lượng đường
trong máu
·
Cải thiện
lưu thông
máu
Trà Ô Long
·
Polyphenols
ngăn ngừa sâu răng
·
Cung cấp Vitamin C, rất tốt cho da
·
Có thể làm giảm
kích ứng da
·
Có thể cải
thiện hiệu
suất của
các enzyme phân hủy chất béo
·
Có thể làm giảm
cholesterol
·
Điều hoà âm dương
Trà Đạo – Việt
Nam
Chè Chuyên – hình thức uống
trà xuất hiện khoảng
từ thời
Lê, được yêu thích bởi tầng lớp quý tộc
và nho sĩ, phá triển tinh tế và thịch
vượng nhất
trong thời Lê Trung Hưng và
đầu Nguyễn. Chè Chuyên là nghệ thuật
của những
thứ nhỏ
nhắn, chén hạt mít, ấm
quả quít… cùng với sự kiểm soát kỹ
càng chất nước và độ
sôi, mục tiêu để tối
đa hoá hương vị khi pha trà. Không chỉ có trà ngon, trong buổi uống
trà còn có hoa, trầm và nến cho những
đêm thanh tịch. Thưởng trà cách để di dưỡng tinh thành thanh
nhã, an nhàn, tự tại của
kẻ sĩ.
Chanoyu – Nhật Bản
Trà Đạo Nhật
Bản tuân theo một lễ thức cổ
xưa có
từ thế
kỉ thứ
15, dùng một loại bột
trà đặc biệt
gọi là matcha, đánh tan với nước
nóng và uống bằng bát lớn.
Được sáng lập
bởi thiền
sư Rikyu, Trà đạo
Nhật Bản
trọng chữ
Đạo, các thao tác trong pha trà đều được
quy định rất
chi tiết.
Trà đạo Nhật
Bản dùng một
loại trà bột
đặc biệt
được gọi
là matcha. Dùng gáo múc nước
sôi từ nồi
đổ vào bát trà. Dùng chổi đánh trà (chasen ) đánh tan trà trong nước. Nhận
bát trà bằng tay phải rồi
đặt vào lòng bàn tay trái. Xoay bát trà theo
chiều kim đồng
hồ 3 lần
bằng tay phải . Sau khi uống
xong, lau miệng bát chỗ vừa
uống bằng
tay phải. Xoay bát ngược chiều
kim đồng hồ
rồi đưa
lại cho trà chủ.
Gongfu Cha – Trung
Quốc
Trung Quốc là trung tâm lớn nhất
của trà, tạo
ra những thay đổi để đưa trà
từ thức
uống giải
khát thành một nghệ thuật
và lan truyền qua các nước lân cận.
Trà đạo Trung Quốc trọng chữ Mỹ,
hướng đến
trà ngon, tinh tế trong việc chọn
trà, nước, ấm và cách pha. Dùng thẻ đong trà xúc trà cho vào ấm. Rót nước
sôi vào ấm, thay đổi cao độ
lên tục để
tạo áp lực
thay đổi tác động vào sợi
trà. Rót trà từ ấm vào chén tống, từ tống rót vào ống ngửi. Lấy chén trà úp lên miệng ống
ngửi, sau đó lật ngược lại để
trà từ ống
ngửi tràn sang chén trà. Lúc này, ống ngửi
sẽ lưu
hương, chén
trà sẽ
lưu vị.
Dùng 2 tay kẹp lấy ống
ngửi, đưa
qua lại ngang mũi trong khi lăn chén giữa 2 tay để thưởng thức hương
trà. Khi uống
trà, câm chén bằng 3 ngón tay thế này được
gọi là tam long giá ngọc.
Panyaro – Hàn Quốc
Trà đạo Hàn Quốc
là chữ Giản,
giản dị
và tự nhiên chất phác với
ít nghi lễ, ít độc đoán, nhiều tự do hơn cho thư
giãn và
nhiều sáng tạo
hơn trong cách thưởng
thức.
Dùng thẻ đong trà vào ấm. Trà Panyaro Hàn Quốc
sử dụng
một loại
trà xanh đặc biệt, một
hỗn hợp
gồm trà bột
và trà sợi cán mỏng. Nước
nóng trước hết được
rót vào chuyên nuớc để giảm
nhiệt độ
xuống khoảng
65°C đến 70°C, sau đó mới rót vào ấm trà. Rót trà từ ấm vào từng
chén, chia thành 3 lần, mỗi lần
1/3 chén.
Nhận xét
Đăng nhận xét