Mặc dù lớp
crema màu nâu sẫm hoặc da hổ
và độ mịn
của lớp
bọt khí là “đặc trưng” của
một cốc
Espresso đáng mong đợi, nhưng
chúng chỉ
là dấu hiệu
thứ yếu
của một
chiết xuất
tốt và đứng
sau trải nghiệm hương
vị của
cà phê.
Trong khi các chuyên
gia cà phê sử dụng crema để đánh giá chất
lượng của
chiết xuất
Espresso. Ví dụ, crema cho biết liệu
tất cả
các tham số ảnh hưởng
đến quá trình chiết xuất, chẳng hạn
như thời
gian khử khí, độ xay, cơ
chế áp suất
có đúng khi trích xuất một cốc hay không. Đa phần người tiêu dùng thích sự hiện
diện của
một lớp
crema đẹp mắt
trên cốc. Tất cả
các yếu tố
cảm quan tạo
ra sự kỳ
vọng về
hương vị
của một
cốc Espresso với sự cân bằng về
hương vị đáng mong đợi.
Thì, đối với
hầu hết
các barista, sự hình thành của crema là một nghề thủ công chứ
không phải là một khoa học.
Một lớp
cà phê được đặt
gọn gàng trong basket cho phép dòng nước chảy
với áp suất
lớn đi
qua cùng với
carbon dioxide (CO2) có trong cà phê rang và carbonate có trong nước, là yếu
tố chính thúc đẩy sự hình thành của crema.. Tuy nhiên, câu hỏi đặt
ra là ảnh hưởng của
màu sắc, kích thước bong bóng và số
lượng crema đối với trải nghiệm
cà phê là gì? Có một crema nào là tối ưu
hay là đặc
điểm
của crema trong đánh giá cảm quan cà phê nói chung?
Quá trình hình thành
crema có thể được xem là một hiện tượng phức
tạp và đầy
thách thức đối với
những ai thuần túy không thích khoa học,
nhưng nếu
bạn thích bia – cơ chế tạo bọt
của hai loại
thức uống
này giống nhau đến 85%, bao gồm bốn giai đoạn
chính:
·
Bubble Formation: Sự
hình thành bong bóng xảy
ra khi CO2 thoát ra chiết
xuất espresso từ trạng thái siêu bão hòa tại các vị
trí tạo mầm
trong ly – trong Espresso, vị
trí tạo mầm
là từ mảnh
vỡ siêu nhỏ
của hạt
cà phê đi theo chiết xuất.
·
Bubble rise: Quá trình rót nhẹ
và sức căng
bề mặt
của chiết
xuất thấp
thúc đẩy hình thành và gia tăng các
bong bóng nhỏ
hơn, tạo
ra bọt loại
kem ổn định
hơn.
·
Drainage: Sau khi hình thành, các bong bóng bắt đầu
thoát nước do tác dụng của
trọng lực,
chúng dần co lại và vỡ
ra
·
Disproportionation: Song song với việc thoát nước, sức
căng bề
mặt giảm
làm cho các bong bóng nhỏ
hợp nhất
vào nhau thành các bong bóng lớn,
mất ổn
định và dễ
tan vỡ hơn.
Về bản
chất, crema được xem là hệ
keo với sự
phân tán của bọt khí trong pha liên tục là chiết
xuất Espresso. Cụ thể hơn, pha khí bao gồm
chủ yếu
là CO2 được tạo
ra trong quá trình rang cà phê sau đó
bị giữ
lại một
phần trong cấu trúc tế
bào của hạt.
Pha liên tục là một hệ
nhũ tương
(bao gồm dầu và nước)
trong đó các
giọt dầu
siêu nhỏ (nhỏ hơn
<10 nm, tức là khoảng 0.00001 mm) phân tán trong dung dịch chiết
xuất cà phê có chứa một số thành phần khác như đường, axit, protein,.. cũng như
các mảnh
tế bào cà phê rắn nhỏ (2-5 nm).
Cơ bản,
crema là một hỗn hợp
của chiết
xuất cà phê với chất béo và CO2. Crema Espresso có thể được phân loại là
bọt siêu bền với tuổi thọ khá
dài. Trong hầu hết các trường hợp, nó có thể tồn tại trọng 40 phút trước
khi hoàn toàn biến mất (trung bình đối với
bia là 2 phút). Khi crema già đi, tính chất của nó phát triển từ bọt mịn trong Espresso mới được pha chế trở thành bọt đa diện
khô khi lão hóa. Lý tưởng
nhất, crema nên chiếm ít nhất
10% thể tích của một
tách Espresso với mật độ bọt
0,30 – 0,50 g/ml – theo The Craft and Science of Coffee
Năm 1948, Achille Gaggia đã giới
thiệu máy Espresso đòn bẩy sử dụng
pít-tông lò xo vận hành bằng tay ép nước qua cà phê dưới
áp suất khoảng
9 bar. Đây là
lần đầu
tiên dầu và khí CO2 được nhũ
hóa trong một cốc Espresso mà ngày nay
chúng ta gọi nó là crema. Và theo
giới học
thuật, đó
là khi nước
bị ép qua cà phê dưới áp lực
lớn, nó gây nên sự nhũ hóa dầu
cà phê trong chiết xuất. Hệ
nhũ hóa
này, kết
hợp với
một lượng
khí CO2 tạo nên lớp bọt
crema mà ta đang nói đến.
Một nghiên cứu khác cho thấy
điều
kiện siêu bão hòa CO2 trong cà phê là động lực
khả thi cho sự hình thành crema trong cà phê Espresso.
Sau khi crema được phát triển, sự mất ổn
định thường
xảy ra thông qua ba bước, trước
khi nó hoàn toàn tan biến.
·
Đầu
tiên là sự kết hợp
giữa các bong bóng gần nhau, xảy ra khi màng ngăn
cách các
bong bóng sụp
đổ.
·
Thứ hai, tuân theo quá trình chín Ostwald, do
chênh lệch áp suất, các bọt
nhỏ áp sát và bị sát nhập
vào các bọt có kích thước lớn
hơn.
·
Cuối cùng, trọng lực buộc chất
lỏng tách ra khỏi bọt khí. Điều
này lần lượt
làm cho crema mỏng dần. Mặc
dù những hiện
tượng này diễn ra như
nhau trong bất kỳ cốc
Espresso nào, nhưng do tác dụng của
nhiệt độ
cao & cách nó nguội
dần từ
trên xuống sẽ làm tăng
thêm sự
phức tạp
để hiểu
các hiện tượng vật
lý trong sự hình thành và ổn định
của crema.
Mặt khác, nhiều nghiên cứu
đã chỉ
ra rằng hàm lượng
lipid cũng có
thể ảnh
hưởng đến
sự ổn
định của
bọt (như đã nói
lipit vốn không thể tan trong nước, nó luôn tìm cách tách ra khỏi nước dẫn đến
sự mất
ổn định
crema). Trong một tách Espresso thông
thường (25 ml), tổng lượng lipid dao động từ
45-146 mg đối với cà phê Arabica và 14-119 mg đối với
cà phê Robusta (hoàn toàn nguyên chất).
Nói cách khác, Espresso từ
cà phê Arabica chứa hàm lượng tổng
lipid cao hơn Espresso từ Robusta, và do đó khả
năng mất
ổn định
bọt do lipid gây ra là cao hơn đối
với Arabica.
Lượng dầu
trong cà phê càng cao, crema càng kém bền
Một số
nghiên cứu trước đây
đã đề
xuất rằng
nhiệt độ
tương đối
cao của một
cốc Espresso có thể tác động
tiêu cực đến sự ổn định
của rema. Lý do chính là nước bay hơi
làm giảm
khoảng cách giữa các bong bóng hơi
và làm
cho bọt nhanh sụp đổ.
Một số
nghiên cứu cho thấy chất
lượng crema phụ thuộc vào lượng protein nói chung trong chiết xuất.
Độ ổn
định cream được tìm thấy
có liên quan đến các thành phần carbohydrate như polysacarid galactomannan và arabinogalactan. Các biến
phụ thuộc
khác được quan sát là tổng chất rắn hòa tan, độ pH, lipid, protein và hàm lượng carbohydrate. Một
mối tương
quan mạnh mẽ đã được tìm thấy
giữa độ ổn định
crema và các hợp chất có khối
lượng phân tử cao, bao gồm
các phức chất giữa
polysacarid, protein và các hợp
chất phenolic gây ra bởi quá trình rang. Axit caffeic là nguyên nhân
chính tạo ra vị đắng
dữ dội
và đặc trưng
của cà phê Espresso, trong quá trình rang, phản ứng
phân hủy CGA bước đầu
sẽ tạo
thành axit caffeic đồng thời giải
phóng 4-vinylcatechol. Dó đó
có thể
nói oligomers 4-vinylcatechol là sản
phẩm thứ
cấp được
tạo ra với
khi thời gian tăng. Và sau một số nghiên cứu phức
tạp hơn
nữa, chúng ta đã chứng minh rõ ràng các
oligomers 4-vinylcatechol, chứ
không phải là este sucrose, đóng vai trò chính trong việc xác định
cấu trúc của
crema trong một tách Espresso tốt.
Những kết
quả này chỉ
ra rằng Robusta, giàu axit caffeic và axit
chlorogenic hơn cà phê
Arabica, do đó sẽ thúc đẩy
sự hình thành các chất hoạt
động bề
mặt 4-vinylcatechol trong quá trình rang, kết hợp
với vai trò của áp suất
và CO2 có thể giải thích vai trò thúc đẩy bọt
của cà phê Robusta trong hỗn hợp
Espresso tốt hơn so với
Arabica.
Tóm lại, chúng ta đã có cơ sở
cho việc bổ sung một
lượng cà phê Robusta vào Arabica khi chiết xuất
Espresso, thứ nhất Robusta với hàm lượng
axit cao hơn mang đến khả
năng hình
thành crema tốt hơn, thứ hai Robusta có ít dầu hơn
nên khả
năng ổn
định crema dài hơn so với
chiết xuất
hoàn toàn từ cà phê Arabica.
Nhận xét
Đăng nhận xét